Ví dụ Ẩn nhiệt

  • Sự chuyển pha lỏng ↔ khí: Nước khi được đun đến nhiệt độ sôi cần cấp vào nhiệt lượng. Nếu cấp thêm năng lượng, nước không trở nên nóng hơn, mà hóa hơi với thể tích tăng đáng kể. Dưới dạng hơi, nước chứa nhiều năng lượng hơn ở dạng lỏng, mặc dù hơi nước không nóng hơn. Khi hơi nước ngưng tụ thành nước thể lỏng, năng lượng được giải phóng, trong khi nhiệt độ vẫn không đổi (quá trình đẳng nhiệt) và thể tích giảm đi. Những lượng năng lượng bằng nhau trong các quá trình này được gọi là entanpi hóa hơi trong trường hợp hóa hơi, và trong trường hợp hóa lỏng là entanpi ngưng tụ; chỉ khác nhau ở dấu của chúng.
  • Trong sự chuyển pha rắn ↔ lỏng, năng lượng cần cấp vào hoặc tỏa ra được gọi là entanpi nóng chảy hoặc entanpi đông đặc, dấu phụ thuộc vào chiều chuyển.

Ẩn nhiệt cũng là nguyên nhân cho hệ số truyền nhiệt cực kỳ cao của một ống dẫn nhiệt.

Khí tượng học

Trong khí tượng học, thông lượng ẩn nhiệt là thông lượng năng lượng từ bề mặt Trái Đất, liên hệ với quá trình bay hơi hoặc thoát hơi của nước ở bề mặt và sau đó là sự ngưng tụ của hơi nước trong tầng đối lưu. Đây là một thành phần quan trọng trong tổng năng lượng của bề mặt Trái Đất.

Trên một bề mặt ẩm trên lục địa hay trên các vùng nước, một phần lớn năng lượng Mặt Trời đóng góp vào sự bay hơi của nước. Ở 20 °C, khoảng 2450 kilojoule trên một kilogam nước được chuyển hóa.[cần dẫn nguồn] Không có sự thay đổi trong nhiệt độ không khí, do đó năng lượng được trữ vào trạng thái hơi của nước.

Bởi vì sự lưu trữ này là có thể đảo nghịch, lượng năng lượng tương đương sẽ được giải phóng trở lại khi một khối không khí lên tới độ cao ngưng tụ và hơi nước sẽ ngưng tụ. Năng lượng ban đầu được cấp trên mặt đất bởi bức xạ Mặt Trời lại được giải phóng trên độ cao lớn và đóng góp vào sự tăng nhiệt độ ở đó. Điều này dẫn đến sự hình thành gradien nhiệt độ đoạn nhiệt ẩm, tức là khí quyển trở nên lạnh hơn một cách chậm hơn so với nếu không có ẩn nhiệt trong gradien nhiệt độ đoạn nhiệt khô.